Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

Trung tâm Phẫu thuật nội soi nhi khoa bằng robot đầu tiên ở Việt Nam đi vào hoạt động

(Chinhphu.vn) - Trung tâm Phẫu thuật nội soi nhi khoa có sử dụng robot trong phẫu thuật vừa được khai trương tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Đây là BV đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á và là trung tâm thứ 2 của châu Á có trung tâm ứng dụng kỹ thuật cao này.
Đây là một bước tiến nhanh chóng của y học Việt Nam trong lĩnh vực chăm sóc và chữa bệnh cho trẻ em. 
Ảnh: Vietnam+
Theo PGS Lê Thanh Hải, Giám đốc BV Nhi Trung ương, việc triển khai phẫu thuật nội soi có sử dụng robot sẽ giúp các bác sĩ có phương tiện hiện đại trong điều trị, qua đó, phát triển được các kỹ thuật mới, kỹ thuật khó trong việc giải quyết các ca bệnh lý phức tạp, tiến tới phát triển thành trung tâm đào tạo chuyển giao kỹ thuật mổ nội soi robot trong khu vực Đông Nam Á.

Phẫu thuật nội soi ứng dụng robot có ưu điểm là: Vùng phẫu thuật thu hẹp, ít xâm lấn nên bệnh nhân lành bệnh nhanh hơn. Cánh tay robot có nhiều khớp cử động và camera điều khiển nên có thể phẫu thuật ở cả những vùng mà bình thường phải mổ mở mới đánh giá được tổn thương.

Trung tâm Phẫu thuật nội soi vào hoạt động sẽ giúp trẻ em Việt Nam được thụ hưởng những thành tựu kỹ thuật cao trên thế giới trong khám chữa bệnh.
Kỹ thuật này cũng là nền tảng để Việt Nam phát triển ý tưởng phẫu thuật từ xa, mở ra ứng dụng lớn trong tương lai, nhất là việc triển khai thực hiện chữa trị bệnh ở vùng sâu, vùng xa, nơi hải đảo, trên tàu thủy... từ các trung tâm y khoa ở các thành phố lớn.

Cho đến thời điểm này, BV Nhi Trung ương đã phẫu thuật thành công 8 ca bệnh bằng phương pháp này. Mục tiêu trong năm 2014, BV sẽ thực hiện 100 trường hợp bằng phẫu thuật robot.
Trước đó, việc xây dựng Trung tâm Phẫu thuật nội soi nhi khoa tại BV Nhi Trung ương thuộc Bộ Y tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, với tổng số vốn đầu tư khoảng 100 tỷ đồng.
Hiền Minh

Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

Trần Hữu Tước, người thầy thuốc về nước cùng Bác Hồ

Ngày 16/9/1946, sau khi Hội nghị Fontainebleau thất bại, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Paris, đi tàu hỏa xuống quân cảng Toulon, trở về nước trên chiếc thông báo hạm Dumont d’Urville của hải quân Pháp. Cùng về với Bác Hồ, có một số trí thức Việt kiều yêu nước: Phạm Quang Lễ (tức Trần Đại Nghĩa), Trần Hữu Tước, Võ Quý Huân…
Trong bài viết này, tôi muốn ghi lại đôi nét về bác sĩ Trần Hữu Tước, một gương mặt trí thức lớn ở thế kỷ 20, đã sống một cuộc đời cao thượng, gắn bó với vận mệnh của nhân dân…
Lần đầu tiên giảng bài bằng tiếng Việt ở bậc đại học
Một buổi sáng trung tuần tháng 11/1946, giữa lúc quân đội viễn chinh Pháp cho những đoàn xe Jeep, xe bọc thép chở đầy binh lính, sĩ quan mũ đỏ hung hăng thị uy dọc theo phố Tràng Thi - Cột Cờ (nay là Tràng Thi - Điện Biên Phủ), thì tại sân sau và các bậc thềm giảng đường Trường đại học Y - Dược Hà Nội ở phố Lê Thánh Tông, sinh viên vẫn đông chờ giờ lên lớp.
Sáng hôm ấy, anh chị em nóng lòng được gặp người thầy đầu tiên của chuyên ngành tai - mũi - họng (TMH) vừa từ Paris theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về nước.
Thầy Hồ Đắc Di, Giám đốc trường kiêm Tổng Giám đốc Vụ Đại học, giới thiệu thầy Trần Hữu Tước với đông đảo sinh viên và các thầy phụ trách các bộ môn trong trường: Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Chung, Hoàng Đình Cầu, Phạm Biểu Tâm, Đinh Văn Thắng, Dương Bá Bành, Nguyễn Hữu…
Trong hơn một giờ, bài giảng của thầy Trần Hữu Tước thật sự chinh phục giới trẻ. Đây là lần đầu tiên, ở bậc đại học, một bài giảng được trình bày bằng tiếng Việt. Từ ngày thành lập Trường Đại học Y - Dược năm 1902, cho đến Cách mạng Tháng Tám, sinh ngữ bắt buộc ở trường này là tiếng Pháp.
Soạn bài giảng bằng tiếng Việt, vào ngày đầu nước nhà mới độc lập, không phải là chuyện dễ, bởi lẽ thuật ngữ còn thiếu nhiều, nhất là thuật ngữ y - dược. Trước đó, học giả Hoàng Xuân Hãn đã xuất bản cuốn Danh từ khoa học, nhưng số thuật ngữ trong đó chủ yếu thuộc các lĩnh vực toán, lý, hóa, cơ, thiên văn.
BS Hữu Tước chẳng những trình bày khái quát sự cần thiết phải học tập và phát triển chuyên khoa TMH, mà còn kể lại những ấn tượng sâu sắc trong những ngày gần Bác ở Paris cũng như khi đi dạo vườn hoa với Bác ở thủ phủ Kandy, Ceylan (nay là Sri Lanka): “Làm thế nào để đồng bào có đủ cơm ăn, áo mặc; các cháu bé không bị toét mắt, bụng ỏng, chân còng, thò lò mũi xanh, cháu nào cũng được đi học”.
Thầy Tước cũng nhắc đến ý kiến của Bác về quan hệ của nghề y với cơ cấu xã hội: “Nếu không thay đổi cơ cấu xã hội, thì nghề thuốc giỏi mấy, cũng chẳng làm gì được!”.
Gần đây, GS Nguyễn Ngọc Lanh nhận xét: “Sau này, khi được học thầy Tước, thì điều tôi nhớ thầy đến hôm nay là thầy sử dụng tiếng Việt tốt hơn các thầy cùng thế hệ với thầy, ít khi phải xen tiếng Pháp vào nội dung bài giảng. Té ra, trước khi học chữ “Tây”, thầy đã từng học chữ Nho”.
GS Võ Tấn, nguyên Chủ nhiệm bộ môn TMH Trường Đại học Y - Dược TP Hồ Chí Minh, kể lại ấn tượng ban đầu của ông đối với GS Trần Hữu Tước:
“Mùa Thu năm 1946, khi được dự buổi giảng bài long trọng đầu năm học về TMH của BS Trần Hữu Tước tại giảng đường Trường Đại học Y - Dược Hà Nội, tôi bị thu hút ngay bởi ngoại hình và phong độ của giảng viên. BS Tước là một thanh niên cao lớn, đẹp trai, ăn mặc sang trọng, nói năng chững chạc, thật đúng là một “dandy parisien” (công tử Paris), hay nói theo lối văn chương, là một trang công tử “vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa”.
huu tuoc aGS Trần Hữu Tước, Anh hùng Lao động, Chủ tịch Hội Tai - Mũi - Họng Việt Nam
Trong khi giảng viên nói thao thao trên bục, thì chúng tôi ngồi phía dưới thì thầm khen Bác Hồ khéo chọn Việt kiều có dáng bộ bảnh bao, có kiến thức sâu rộng đưa về nước”.
Đêm 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Anh sinh viên nội trú Võ Tấn lúc đó đang trực tại Bệnh viện Lanessan (Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 hiện nay) nên bị kẹt lại tại Hà Nội, rồi chuyển sang làm việc tại Bệnh viện Yersin (Bệnh viện Việt - Đức hiện nay).
Năm 1949, BS Võ Tấn được một người ở “hậu phương” Thanh Hóa vào thành cho biết: BS Trần Hữu Tước bị bệnh đường ruột nặng, cấp trên cho phép vào Hà Nội điều trị, nhưng ông dứt khoát không vào, và nói rõ thà chết ở vùng tự do còn hơn sống trong vùng địch!
Cũng năm đó, Pháp thành lập “Chính phủ quốc gia” ở vùng tạm chiếm và đưa Nguyễn Văn Tâm lên làm “Thủ tướng”. Ông này có con là Nguyễn Văn Hinh, Thiếu tướng “quân đội quốc gia”, có quen BS Trần Hữu Tước hồi còn ở Pháp, tìm cách cho người đến Thanh Hóa liên lạc, mời bác sĩ trở về thành “phục vụ quốc gia”, nhưng bác sĩ kiên quyết chối từ.
Những sự kiện trên làm cho BS Võ Tấn xúc động. Ông tự hỏi: Không biết cách mạng có cái gì cao quý, hấp dẫn làm cho một đại trí thức như BS Trần Hữu Tước đam mê đến mức thà hy sinh mạng sống, chứ không chịu rời bỏ cách mạng! Từ đấy, BS Tấn âm thầm tìm hiểu mục tiêu lớn lao của cách mạng, cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ, người có ảnh hưởng quyết định đến việc lựa chọn đường đi của BS Tước.
Sau trận Điện Biên Phủ, rồi Hiệp nghị Geneva, ở Hà Nội, chính quyền thân Pháp ra sức lôi kéo trí thức vào Nam. Một số bác sĩ dao động, khi gặp nhau, câu hỏi cửa miệng của họ là: “Cậu đi hay ở lại?”, có người trả lời ngay: “Tước, nó còn ở được, tại sao chúng mình không ở được?”.
Ý nói, BS Tước sống sung sướng bên Pháp như thế, mà còn chịu gian khổ được, thì tại sao chúng ta lại không bằng anh ấy? Và thế là nhiều bác sĩ ở lại Hà Nội, và sau đó, họ đã góp phần xứng đáng vào cuộc kháng chiến chống Mỹ.
GS Võ Tấn viết tiếp: “Nhìn lại hơn nửa thế kỷ qua, chúng ta thấy Bác Hồ có con mắt thật tinh tường, biết đánh giá thực chất con người. (…). Thời trai trẻ, GS Trần Hữu Tước có bề ngoài hào nhoáng của một trang phong lưu công tử rất sành ăn diện, nhưng bên trong, lại ấp ủ một trái tim yêu nước nồng nàn, dám bỏ hết những thứ xa hoa phù phiếm, quyết chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, cống hiến trọn đời cho nhân dân, không so đo tính toán thiệt hơn cho cá nhân mình.
GS Trần Hữu Tước xứng đáng là người Anh, người Thầy của chúng tôi và còn là một tấm gương trong sáng cho thế hệ mai sau noi theo”.
Theo GS Võ Tấn cũng như giới y học nước ta, thì GS Trần Hữu Tước chính là vị sư tổ của chuyên khoa TMH hiện đại ở Việt Nam, tuy rằng trước đó ở ngoài Bắc đã có GS Đỗ Xuân Hợp và trong Nam có BS Cao Văn Trí, BS Cao Văn Lộc chuyên điều trị các bệnh TMH, nhưng các vị ấy không làm công tác đào tạo, không xây dựng mạng lưới điều trị.
Kể từ ngày đầu về nước cùng Bác Hồ vào mùa Thu năm 1946, bắt đầu giảng dạy ở Trường Y, cho đến khi qua đời, GS Trần Hữu Tước đã đào tạo hơn 500 bác sĩ, y sĩ, chuyên khoa TMH, trong số đó nhiều người về sau đã trở thành phó giáo sư, giáo sư.
Sau đó, những học trò ưu tú của GS Tước lại đào tạo thêm 1.000 thầy thuốc TMH nữa. Ông cũng đã cùng số học trò đông đảo xây dựng mạng lưới điều trị TMH trong cả nước, đến tận cấp quận huyện, xã phường.
Hình ảnh một thời “lương y như từ mẫu”
Sau khi quân Pháp thất bại nặng trong trận tiến công Chiến khu Việt Bắc cuối năm 1947,Đội y tế thầy Tước đi vào huyện Nông Cống, Thanh Hóa. Thầy Tước cùng các thầy Hoàng Đình Cầu, Đặng Vũ Hỷ… xây dựng Trường Y sĩ liên khu III, IV ở thôn Giáp, bên ngọn núi Nưa. Những lớp đầu tiên đào tạo chuyên khoa TMH mở ra từ đấy.
Dụng cụ, thiết bị của chuyên khoa TMH thời kháng chiến thật ít ỏi, chỉ vẻn vẹn 30 kg được đeo trong ba-lô trên vai BS Trần Hữu Tước, và khi vào đến vùng “hậu phương” Thanh Hóa, thì chỉ xếp gọn vào một góc đình làng. Tuy đơn sơ nhỏ bé thế, nhưng nếu không có nó, thì làm sao thực hiện được bao điều kỳ diệu.
PGS Lê Văn Lợi kể lại: Hôm ấy, một anh nông dân còn trẻ bị hóc ở cổ một khúc xương đùi ếch. Đã sang ngày thứ ba, không ăn được, chỉ uống chút nước cầm hơi. Vợ anh cùng bà con bà con nội ngoại chạy khắp làng trên xóm dưới, sang cả huyện bên để tìm thầy lang cứu chữa, nhưng đều vô hiệu, người bệnh chỉ còn chờ chết. Cuối cùng, mới cáng tới thầy Tước.
Sau khi khám họng, thầy dùng một cái cần móc kiểu Kirmissin đưa vào trong họng người bệnh, rồi làm một vài động tác xoay nắn cổ, thầy móc ra cả khúc xương quái ác kia, trước con mắt kinh ngạc của mọi người.
Anh nông dân cùng gia đình quỳ xuống đất, lạy sống vị ân nhân.
Một gia đình nông dân khác cáng võng người bệnh tới nhà thầy Tước ở thôn Giáp, giữa bữa cơm tối. Đó là một phụ nữ đang chảy mủ tai, đau đầu dữ dội, đau ngày đau đêm, không ăn không ngủ, luôn lăn lộn đấm tay vào đầu, rên la kêu khóc không ngớt. Gia đình cáng bệnh nhân đến, nhưng thật ra hết hy vọng rồi, đang sửa soạn ma chay.
Sau khi khám kỹ người bệnh, thầy huy động mấy anh em học sinh Trường Y sĩ rửa luộc dụng cụ, khăn mổ, găng tay. Một ca mổ cấp cứu trong buổi tối mùa hè nóng nực, dưới ánh đèn dầu hỏa tù mù, kiểu đèn bão. Người bệnh nằm trên cái chõng tre kê cao.
Anh Lê Văn Lợi (lúc ấy là học sinh Trung cấp, sau này, là Phó Giáo sư) đứng bên phải thầy Tước, cầm đèn lúc đưa lên cao, khi hạ xuống thấp, nghiêng trái, nghiêng phải để thầy nhìn được hố mổ. Bên trái là một chị y tá luôn tay quạt và lau mồ hôi cho thầy.
Cho tới khi tháo được ổ mũ ra, thầy mới thở phào nhẹ nhõm. Bệnh nhân được cứu sống.
Những ngày sau đó, bệnh nhân và gia đình nhiều lần đến vái lạy thầy, mang tới biếu thầy đủ thứ, nào gà, nào cá, nào gạo nếp, đậu xanh, nào ngô bắp, khoai sắn. Nhưng thầy đều vui vẻ chối từ.
Trong kháng chiến, BS Tước sống rất giản dị. Ít ai nghĩ rằng chàng “công tử thành Ba Lê” ngày nào ăn diện đúng mốt, thế mà nay đi dép cao su Con Hổ, và về sau, đi dép lốp; còn lúc ở trong nhà thì đi guốc mộc. Ăn uống chỉ có cơm độn khoai, với rau muống luộc chấm tương, và thi thoảng thêm vài con cá đồng, lươn chạch…
GS Đặng Hiếu Trưng cũng như BS Đinh Phương Nghi, những người học trò giỏi của thầy Tước, cho biết thầy mổ rất đẹp. Có lần thầy kể: Dạo còn ở Paris, những lúc rảnh rỗi, thầy thường đến xem người thợ kim hoàn làm việc. Thầy ngắm nghía hàng giờ đôi bàn tay điêu luyện của họ tạo nên những đồ trang sức tuyệt mỹ.
Tuy vậy, làm việc với vàng bạc, đá quý, nếu người thợ kim hoàn có lỡ tay, thì vẫn có thể sửa, chứ người thầy thuốc mổ xẻ, chỉ một động tác thô bạo, là đã có thể gây tai nạn chết người. Vậy mà những mất mát đối với con người, thì không có gì bù đắp được!
Không may, trong những năm ở Thanh Hóa, thầy mắc phải bệnh đường ruột quái ác, có khối u ở đại tràng. Khi theo Bác Hồ về nước thầy nặng 75 kg, giờ chỉ còn 42 kg. Cao 1,75 m, mà chỉ nặng 42 kg thì quả thật da bọc xương.
Lúc ấy, ở Liên khu IV, Liên khu III, cũng như ở Liên khu Việt Bắc, quá thiếu tân dược, do quân Pháp phong tỏa ngặt nghèo các loại thuốc men. Cấp trên gợi ý sẽ sắp xếp một đường dây bí mật để kín đáo đưa thầy tạm thời vào Hà Nội chữa bệnh một thời gian. Nhưng thầy dứt khoát từ chối!
Sau Chiến dịch Biên giới, nước ta nối liền với CHND Trung Hoa, tạo ra khả năng đưa cán bộ sang Trung Quốc chữa bệnh. Bác Hồ và Trung ương Đảng mấy lần điện vào Thanh Hóa “lệnh” cho BS Tước lập tức lên Sơn Dương, để sang Bắc Kinh điều trị.
Khó nghĩ quá! Đi thế nào từ Nông Cống ở Thanh Hóa lên châu tự do Sơn Dương ở Tuyên Quang? Nhưng, thôi quyết chí ra đi. Đã lâu rồi không được gặp Bác. Sức khỏe quá kém, mỗi ngày chỉ đi bộ được 5-6 km. Mệt thì nghỉ.
Một cái máy bay “bà già” vè vè trên đầu, đang thả móc sắt xuống tìm móc phá đường dây điện thoại của ta. Rồi một máy bay khu trục xuất hiện nhả lửa, bắn xuống một băng đạn. Núp sau gốc cây to, cứ chạy vòng quanh, chúng bắn chỉ trúng vào thân cây, chán rồi, bỏ đi! Lại thủng thẳng bước tiếp.
BS Tước đến ATK một buổi chiều. Dành sẵn cho ông là một ngôi nhà tre nứa nhưng khá đàng hoàng bên bờ suối, ẩn hiện dưới tán cây xanh vài chục mét cao.
Mấy năm rồi, ông chưa từng thấy một ngôi nhà nào cao ráo, thoáng rộng như thế cả. Cái giường tre nứa cũng dài, rộng, khang trang. Trên mặt bàn vuông, lát phên nứa, ông thấy đặt sẵn mấy chai rượu vang trắng, đỏ, và cả rượu mạnh nữa. Lại còn đồ hộp chiến lợi phẩm. Tất cả đều do Bác Hồ gửi sang cho…
Biết bao ân tình Bác đã dành cho
Đêm hôm đó, tuy vừa kết thúc cuộc đi bộ từ Thanh Hóa lên Việt Bắc kéo dài một tháng rưỡi, thấm mệt, nhưng ông vẫn không sao ngủ được, cứ trằn trọc mãi với biết bao cảm xúc, suy nghĩ.
Chắc Bác ở gần đâu đây thôi? Thế nào hôm sau cũng được gặp Bác? Trời càng về khuya, nghe tiếng suối chảy càng to. Rồi chim chóc đua nhau hót rộn lên đón chào rạng đông. Rừng bao quanh nhà rì rào cơn gió sớm. Ngủ dậy, ông vừa đi ra sân hít thở, tập thể dục, thì Bác tới!
Chắc Bác ngạc nhiên lắm vì chỉ trông thấy đôi mắt kính gọng đen, cái cổ dài nghêu, chân tay da bọc xương, trong bộ quần áo nâu lụng thụng. Bác giơ tay bắt, rồi ôm chầm lấy ông.
huu tuoc bBác Hồ thân mật hỏi chuyện GS Trần Hữu Tước
Phút cảm động khó quên, đôi chút nghẹn ngào! Bác đỡ gầy hơn hồi mùa đông năm 1946, đôi mắt sáng, dịu hiền, dáng nhanh, mạnh, nhưng râu tóc bạc nhiều. Giọng ấm áp, ân cần, Bác hỏi về bệnh tật, về tình hình phát triển chuyên khoa TMH. Bác đùa, nếu làm tốt, thì TMH sẽ là Thế Mà Hay, nếu làm kém, thì lại là Thế Mà Hỏng!
- Nhưng thôi - Bác nói - chú cứ yên tâm đi chữa cho khỏi bệnh, rồi lúc trở về, sẽ cố lo sao cho… Thế mà hay!
Một buổi tối, “anh Tô” (ông Phạm Văn Đồng) cho người đến đón BS Tước đến nhà ăn cơm. Nhưng chỉ nói chuyện được một lúc, thì cơn đau dội lên, phải ôm bụng ra về, ông không sao ngồi ăn được nữa!…
“Chiều hôm đó, từ trong rừng Việt Bắc, ánh mặt trời còn le lói chiếu trên đầu ngọn cây, sau bao nhiêu năm - BS Tước ghi nhật ký - tôi lại thấy hiện ra một chiếc xe Jeep dưới vòm lá xanh cổ thụ. Khi tôi sắp bước lên xe, ngồi cạnh anh lái, thì bỗng nghe tiếng ngựa phi nhịp nhàng nước đại…
Trời! Bác đến… tiễn tôi!
Cũng có thể do thấy tôi gầy còm quá, chắc gì đã có lần gặp sau, nên Bác đến. Cảm động nghẹn ngào…
Bác trao cho tôi một lá thư tự tay Bác viết bằng chữ Hán, để chuyển tới người đại diện Chính phủ ta ở nước láng giềng. Bác dặn tôi khi vào bệnh viện ở Bắc Kinh, chớ nói mình là thầy thuốc, và ân cần khuyên tôi cố gắng an tâm chữa bệnh.
Thấy tôi dô cả xương ra, thế mà chỗ ngồi, ghế tựa xe Jeep rất cứng, Bác gọi đem đến hai cái gối độn cỏ khô để chèn cho đỡ xóc đường trường. Rồi thấy đầu tôi có thể va vào khung sắt mui xe, Bác lấy luôn cái mũ cát vàng của Bác chụp lên đầu tôi, rồi Bác dặn “phải chú ý”.
Xe chuyển bánh. Bác đứng một lúc, vẫy tay, rồi nhảy lên ngựa. Ngoái đầu nhìn lại, tôi chỉ còn thấy bóng con ngựa hồng trong ánh chiều sáng lóa, trên lưng ngựa, Bác gò cương phi về phía trước, tóc bạc tung bay ra phía sau, giữa màu xanh chàm của núi rừng trùng điệp trên đất nước thiêng liêng.
Một bức tranh tuyệt đẹp! Bác phi ngựa hồng trong chiều tà Việt Bắc! Ảo ảnh đó hiện lên trong cõi vô thức của tôi khi tôi chìm sâu vào giấc ngủ thuốc mê, trong ca mổ cắt một đoạn ruột tại Hiệp Hòa Y viện ở Thủ đô Bắc Kinh”.
GS Hoàng Gia Tử, Giám đốc Y viện, trực tiếp mổ cho BS Trần Hữu Tước, cắt bỏ khối u cùng một đoạn ruột. Sau đó, chỗ nối vẫn gây cho ông nhiều cơn đau quặn ruột, và phải trở lại Yviện này điều trị lần thứ hai vào năm 1955.
Hàm Châu

Một số động tác đơn giản giúp bạn phục hồi năng lượng

Nhiều lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi toàn thân, đau nhức xương khớp là biểu hiền của ngồi và làm việc sai tư thế quá lâu, hoặc mất ngủ kéo dài. Do vậy, chúng tôi khuyên bạn nên thử dành một vài phút tập một số động tác sau để lấy lại năng lượng và thăng bằng trong cuộc sông.

1. Động tác uốn cong

3 động tác giúp bạn lấy lại năng lượng ngay lập tức 1

- Đứng với chân rộng bằng vai, đầu gối hơi trùng, bàn tay để phía sau đầu. 

- Giữ lưng thẳng, từ từ uốn cong người về phía trước cho đến khi lưng song song với mặt đất, giữ trọng lượng ở gót chân và hông của bạn.

- Trở về tư thế đứng như trước và lặp lại 10-12 lần.

2. Động tác dựa tường

3 động tác giúp bạn lấy lại năng lượng ngay lập tức 2

- Đứng thẳng, lưng sát vào một bức tường sao cho cột sống chạm vào tường từ vai đến hông.

- Giơ tay song song với sàn nhà. Giữ cánh tay và lưng áp sát vào tường.

- Từ từ xoay cánh tay lên cao hết sức có thể, sau đó hạ xuống vị trí bắt đầu.

- Lặp lại 10-12 lần như vậy.

3. Động tác nghiêng người

3 động tác giúp bạn lấy lại năng lượng ngay lập tức 3

- Ngồi trên một chiếc ghế, hai tay có thể đặt phía sau đầu.

- Đẩy khuỷu tay ra phía sau và thở căng ngực.

- Uốn cong sang một bên, từ thắt lưng trở xuống vẫn giữ thẳng.  

- Trở lại tư thế trước đó và lặp lại sang bên kia.

- Làm liên tục như vậy 10-12 lần mỗi bên.

Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

Những dấu hiệu để nhận biết sớm bệnh tiểu đường

Theo các nhà khoa học, bệnh tiểu đường muốn phát hiện sớm bạn có thể để ý những dấu hiệu sau:


Thường xuyên vào nhà tắm vào ban đêm 

Người bị bệnh phải vào nhà tắm nhiều lần để thải lượng glucozơ thoát khỏi máu do thận yếu, thường xảy ra khá nhiều lần vào ban đêm. 
Hay bị khát nước
Bạn thấy khát hơn bình thường vì cơ thể cần bổ sung nước. Hai triệu chứng này gắn liền với nhau và chúng ta phải có chế độ dinh dưỡng hợp lý để điều chỉnh lượng đường trong máu.
Giảm cân quá nhanh
Nếu một người bị giảm 10-20 pound chỉ trong 2 hoặc 3 tháng. Đó là sự giảm cân không lành mạnh, có thể do lượng đường trong máu cao, vì hocmon insulin không nhận được glucozơ vào tế bào để cung cấp năng lượng và protein trong cơ bắp bị phá hủy làm nguồn năng lượng thay thế. Thận cũng phải hoạt động nhiều hơn để loại bỏ lượng đường thừa, làm tốn thêm calo. 
Hay cảm thấy đói 
Khi lượng đường trong máu giảm xuống, cơ thể người bệnh “hiểu lầm” là bị đói và cần thêm đường để tế bào hoạt động.
Những triệu chứng trên da
Da bị ngứa và khô cũng có thể là dấu hiệu cảnh báo bệnh tiểu đường, đặc biệt da ở những vùng kín như cổ hoặc nách. Tiến sĩ Collazo-Clavell, giải thích ở những người này thường đã có một quá trình kháng insulin xảy ra ngay cả khi lượng đường trong máu không cao. Khi thấy dấu hiệu này, bạn nên đi kiểm tra lượng đường trong máu.
Vết thương chậm lành
Nhiễm trùng, chảy máu hoặc vết thương bầm tím lâu bị lành. Nguyên nhân là do mạch máu bị hư hỏng vì quá nhiều đường lưu thông qua tĩnh mạch và động mạch, làm máu khó lưu thông đến các vùng khác của cơ thể để chữa lành vết thương.
Nhiễm nấm men 
Tiến sĩ Collazo-Clavell giải thích, tiểu đường là một trạng thái ức chế miễn dịch nên rất nhạy cảm với các bệnh nhiễm trùng, phổ biến nhất là nấm men (candida), vì loại nấm này phát triển mạnh trong môi trường nhiều đường. Đặc biệt, phụ nữ dễ bị nhiễm candida ở âm đạo.
Cảm giác mệt mỏi và khó chịu
Lượng đường trong máu cao, theo thời gian, nó làm cho người bệnh cảm thấy mệt mỏi và người bệnh dễ cáu kỉnh. 
Giảm thị lực
Lượng đường cao làm thay đổi hình dạng thấu kính của mắt dẫn đến độ khúc xạ thay đổi, làm giảm tầm nhìn, hình ảnh nhìn được bị méo mó, đôi khi nhìn thấy ánh sáng nhấp nháy. Khi lượng đường trong máu trở lại bình thường, triệu chứng này mất đi, nhưng nếu xảy ra trong thời gian dài, mắt sẽ bị tổn thương vĩnh viễn, thậm chí có thể bị mù lòa.
Ngứa ran hoặc tê
Chân và tay bị ngứa ra, tê, đau rát hoặc sưng, do thần kinh bị hư hại. Nếu lượng đường trong máu cao trong thời gian dài có thể làm các dây thần kinh bị tổn hại vĩnh viễn. Vậy nên chúng ta phải kiểm soát lượng đường trong máu một cách nhanh nhất có thể.
Lời khuyên: Hãy đi xét nghiệm máu thường xuyên
Xét nghiệm máu để kiểm tra bệnh tiểu đường, không chỉ một lần mà nên tiến hành thường xuyên theo định kỳ. Hãy kiểm tra đường huyết lúc đói, sau một đêm (hoặc tám tiếng) không ăn uống. Nếu lượng đường huyết trong hai lần đo đều trên 126 mg/dL có nghĩa bạn đã bị bệnh tiểu đường. Với người bình thường lượng đường huyết là 99 mg/dL, từ 100-125 mg/dL là tiền tiểu đường.

Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

8 sai lầm khi pha sữa cho con của các bà mẹ trẻ

Những sai lầm trong cách pha sữa và con con uống sữa dưới đây sẽ khiến không ít các chị em giật mình trong cách mà mình đã từng làm để pha sữa cho con uống.

1. Dùng nước khoáng, nước đóng chai tinh khiết để pha sữa
Trung bình trong 1 lít nước khoáng có khoảng 11 – 17 mg canxi, 95 – 130 mg natri…Vì vậy, một số phụ huynh khi nuôi trẻ dưới 1 tuổi đã dùng nước khoáng pha sữa, nhằm bổ sung thêm chất khoáng cho trẻ. Hơn nữa, chị em lại cho rằng, nước đóng chai tinh khiết thì đảm bảo độ sạch hơn cả. Nhưng theo các chuyên gia dinh dưỡng thì không nên làm như vậy.
Trong nước khoáng có quá nhiều khoáng chất dẫn đến dư thừa khi pha cùng sữa. Ví dụ: Thừa canxi có thể dẫn đến táo bón, sỏi thận, canxi huyết cao, thận làm việc kém hiệu quả, giảm hấp thu các chất khoáng khác (sắt, kẽm, magie); thừa natri cơ thể sẽ mệt mỏi, khát nước, khô tế bào, lâu dài dẫn đến bệnh cao huyết áp…
Dùng nước khoáng để pha sữa cho trẻ em uống còn có nguy cơ tạo ra một số chất trung gian nguy hiểm. Vì vậy các bà mẹ chỉ cần dùng nước tự nhiên đun sôi để nguội là lý tưởng nhất.
2. Pha sữa với nước cháo loãng
Trong sữa bò có nhiều vitamin A, còn trong nước cơm và cháo chủ yếu là chất bột với chất lipoxidase – một loại chất sẽ phá hủy vitamin A. Pha thêm nước cơm hoặc cháo vào sữa vô tình mẹ đã làm mất đi lượng vitamin A rất cần thiết cho sự phát triển của trẻ nhỏ. Thêm vào đó, tinh bột trong cháo, nước cơm sẽ cạnh tranh hấp thu với canxi.
Trẻ có thể chậm tăng trưởng chiều cao, chậm mọc răng, ngủ trằn trọc, khóc đêm... do kém hấp thu canxi trong sữa. Mặt khác, các hãng sữa đã đề ra công thức chuẩn nhất cho sản phẩm của mình. Sữa pha với nước cháo loãng có thể làm biến chất hay thậm chí gây rối loạn tiêu hóa, từ đó đẫn đến sụt cân ở trẻ nhỏ.
3. Thêm nước hoa quả vào sữa
Thật sai lầm khi một số mẹ cho rằng, thêm nước cam hoặc chanh vào trong sữa giúp tăng hương vị khiến trẻ hứng thú với việc uống sữa hơn. Thực tế, nước cam và nước chanh đều thuộc sản phẩm hoa quả acid AHA cao, acid AHA gặp protein trong sữa sẽ làm cho protein biến chất, từ đó giảm thấp giá trị dinh dưỡng của protein.
4. Pha sữa quá đặc
Nhiều bà mẹ quan niệm rằng, cho trẻ uống sữa càng đặc càng tốt. Tuy nhiên, theo các chuyên gia dinh dưỡng, nếu cho trẻ thường xuyên uống sữa quá đặc sẽ gây đau bụng, táo bón, ăn uống không ngon hoặc thậm chí cự tuyệt thức ăn… Đặc biệt, một số trẻ còn bị viêm ruột non xuất huyết cấp tính.
5. Pha sữa sẵn cho con vì không có nhiều thời gian
Một số chị emkhông có nhiều thời gian cũng như chưa có sự hiểu biết nên quyết định pha sẵn cả một bình lớn để tủ lạnh, khi nào cần thì hâm nóng rồi cho con uống dần. Điều này không tốt cho trẻ. Sữa pha rồi để ở nhiệt độ phòng chỉ giữ được trong vòng 1 giờ.
Nếu mẹ pha sẵn một bình sữa to và cất tủ lạnh chưa sử dụng, sữa đó cũng cần được đổ bỏ trong vòng 24 giờ sau pha. Loại sữa đóng chai pha sẵn dành cho bé trên 1 tuổi cũng chỉ để được 48 giờ sau khi mở nắp.
6. Giữ lại phần sữa thừa cho bé bú lần sau
Nhiều bà mẹ vì tiếc của nên khi bé uống thừa sữa vấn cố tình để lại cho trẻ uống tiếp lần sau mà không biết khi bé đã ngậm miệng vào bình sữa, vi khuẩn từ không khí và miệng bé tiếp xúc có thể truyền vào sữa, bám trụ ở đó và ảnh hưởng đến sức khỏe của bé. Thông thưởng, một bình sữa bé đã ngậm miệng chỉ có thể sử dụng trong vòng 60 phút.
7. Dùng sữa uống thuốc
Nhiều trẻ nhỏ khi bị bệnh thì sợ uống thuốc. Để dụ dỗ con, cha mẹ nghĩ ra chiêu dùng sữa (thay vì nước trắng) để cho con uống thuốc, vì cho rằng, sữa có vị ngọt tự nhiên sẽ làm giảm vị đắng của thuốc, giúp trẻ uống thuốc dễ dàng hơn.
Sự thật, uống thuốc cùng với sữa còn dễ làm thuốc hình thành màng bao phủ trên bề mặt, khiến cho can-xi trong sữa và ion khoáng chất như kẽm... gây phản ứng hóa học với thuốc, hình thành chất hòa tan không phải nước, điều này không chỉ làm giảm thấp hiệu quả thuốc, còn có thể gây nguy hại cho cơ thể.
Bởi thế, dùng sữa cho trẻ uống thuốc là vô tình mẹ đã hại đến sức khỏe của con. Và lưu ý, trong 1-2 giờ trước và sau khi uống thuốc tốt nhất không nên uống sữa.
8. Làm nóng sữa bằng lò vi sóng
Nếu có gì quan trọng hơn sự tiện lợi, thì đó chính là sức khỏe và sự an toàn của chính con bạn. Lò vi sóng không chỉ phá vỡ các vitamin và khoáng chất mà còn tạo ra những điểm nóng lạnh không đều nhau khiến bé có thể bị bỏng khi bú. Mẹ hãy làm nóng sữa bằng máy hâm sữa chuyên dụng hoặc đơn giản hơn: ngâm bình sữa chỉ 30 giây – 1 phút trong một bát nước nóng.
Uyên Nhi (Tổng hợp)